Pháp luật Doanh nghiệp - Tư vấn luật doanh nghiệp miễn phí 24/7

Cắt điện không thông báo trước có bị truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Cắt điện không thông báo trước có bị truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Hành vi khách quan của tội phạm được quy định có là: Đóng điện trái quy định của pháp luật; Cắt điện trái quy định của pháp luật; Từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật; Trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng. Các hành vi nói trên bị coi là tội phạm.........

1. Khái quát chung

Hành vi phạm tội xâm phạm đến chính sách cung ứng điện do Nhà nước quy định đối với các cơ quan, tổ chức và công dân qua đó có thể gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế hay các thiệt hại khác.

Hiện nay, các cơ sở, doanh nghiệp cung ứng điện chủ yếu do Nhà nước quản lí, hoặc đang dần cổ phần hóa các doanh nghiệp cung ứng điện nhưng nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối. Vì vậy, việc cung ứng điện đều có sự chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo an sinh xã hội, mặc dù trên thực tế có “hợp đồng” mua bán điện giữa các cơ quan, tổ chức và công dân giữa các doanh nghiệp cung cấp điện. Khi cơ chế thị trường thực hiện việc mua bán điện thực sự bình đẳng giữa các bên thì các hành vi nêu trên có thể được coi là vi phạm các cam kết trong hợp đồng nên có thể xử lí bằng các biện pháp hình sự.

2. Tội vi phạm quy định về cung ứng điện được quy định như thế nào?

Tội vi phạm quy định về cung ứng điện được quy định tại Điều 199 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:

Điều 199. Tội vi phạm quy định về cung ứng điện

1. Người nào có trách nhiệm mà đóng điện, cắt điện, từ chổi cung cấp điện trải quy định của pháp luật hoặc trĩ hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng thuộc một trong các triĩờng hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỳ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61%> đến 121%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

d) Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vỉ phạm hành chỉnh về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường họp sau đây, thì bị phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gãy thương tích hoặc gầy tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tong tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tồn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3. Bình luận

Điều luật gồm 4 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định các dấu hiệu pháp lý của tội phạm và khung hình phạt cơ bản; các khoản 2, 3 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng và khoản 4 quy định khung hình phạt bổ sung.

3.1 Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Đây là tội phạm đòi hỏi chủ thể đặc biệt. Chủ thể của tội phạm phải là người có chức vụ, quyền hạn trong việc cung ứng điện.

3.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm được quy định có là: Đóng điện trái quy định của pháp luật; Cắt điện trái quy định của pháp luật; Từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật; Trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng. Các hành vi nói trên bị coi là tội phạm nếu có một trong các tình tiết sau:Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% trở lên;Gây thiệt hại về tài sản từ 200 triệu đồng trở lên;Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Người phạm tội có các vi phạm trong việc cung ứng điện, bao gồm các dạng hành vi cụ thể sau đây:Đóng điện trái pháp luậtCắt điện trái pháp luậtTừ chối cung cấp điện trái pháp luậtTừ chối xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng

Ví dụ các hành ci cắt điện hoặc từ chối cung cấp điện mà không có thông báo trước, không có căn cứ, lý do chính đáng làm cho các gia đình, doanh nghiệp, nhất là các gia đình kinh doanh, các doanh nghiệp đông lạnh…thiệt hại về kinh tế, hoặc việc từ chối cung cấp điện đã làm cho các doanh nghiệp khác chậm kế hoạch sàn xuất, xuất khẩu nên gây thiệt hại về kinh tế hay việc từ chối xử lí sự cố điện khi không có lý do chính đáng đã dẫn đến tai nạn về điện như gây tổn thương cơ thể, gây hậu quả chết người..v..v..

– Các hành vi vi phạm nêu trên bị coi là tội phạm nếu thuộc một trong các trường hợp:

+ Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

+ Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

+ Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Người phạm tội này là người có trách nhiệm trong việc cung ứng điện để thực hiện một trong các hành vi sau: Cắt điện không có căn cứ hoặc không thông báo theo quy định; từ chối cung cấp điện không có căn cứ; trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng.Cắt điện không có căn cứ là cắt điện không có lý do chính đáng. Cắt điện không thông báo theo quy định là trường hợp theo quy định phải thông báo về việc cắt điện trước khi cắt điện, nhưng chưa có thông báo hoặc không thông báo mà vẫn cắt điện. Việc thông báo cắt điện phải được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo đến tận người sử dụng điện.Từ chối cung cấp điện không có căn cứ là trường hợp người sử dụng điện đã làm đầy đủ các thủ tục cần thiết theo quy định nhưng không được cung cấp điện, lý do mà bên cung cấp đưa ra để từ chối việc cung cấp điện là không có căn cứ.Trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng là trường hợp điện bị sự cố (mất điện), đã nhận được thông báo bị mất điện, có điều kiện để khắc phục sự cố nhưng không xử lý sự cố mà trì hoãn gây khó khăn cho người sử dụng điện.

3.3 Mặt khách thể

Khách thể ở đây là trật tự quản lí kinh tế mà cụ thể là vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực cung ứng điện. Động cơ cơ của người phạm tội chủ yếu là do vụ lợi hoặc vì mục đích cá nhân. Tuy nhiên, đây không phải là yếu tố cần thiết để cấu thành tội phạm, có nghĩa là chỉ cần người vi phạm thực hiện đầy đủ các hành vi khách quan trong điều luật là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội vi phạm các quy định về cung ứng điện có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

3.4 Dấu hiệu lỗi của chủ thể

Lỗi của chủ thể đối với hành vi vi phạm là lỗi cố ý. Đối với thiệt hại gây ra, lỗi của chủ thể là lỗi vô ý. Lỗi của người phạm tội là cố ý. Người có trách nhiệm cung ứng điện nhận thức rõ việc đóng điện, cắt điện hay từ chối cung cấp điện…là trái pháp luật, không có căn cứ nhưng vì động cơ mục đích khác nhau nên vẫn thực hiện.

3.5 Khung hình phạt

Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản là phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 150 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất là phạt tiền từ 150 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

- Làm chết người: Đây là trường họp phạm tội đã làm (01) người chết.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cùa 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%: Đây là trường họp phạm tội đã làm 02 người bị thương tích hoặc bị tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 122% đến 200% (vì vượt mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 3 của điều luật).

- Gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng: Đây là trường hợp phạm tội đã gây thiệt hại tài sản cho người khác từ 500 triệu đến dưới mức 1,5 tỷ đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 3 của điều luật).

3. Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường họp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

- Làm chết 02 người trờ lên: Đây là trường hợp phạm tội làm 02 người chết trở lên.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên: Đây là trường hợp phạm tội đã làm 03 người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 201% trở lên.

- Gây thiệt hại về tài sản 1,5 tỷ đồng trở lên: Đây là trường hợp phạm tội đã gây thiệt hại tài sản cho người khác từ 1,5 tỷ đồng trở lên.

4. Khoản 4 của điều luật quy định hình phạt bổ sung (có thể áp dụng đối với người phạm tội) là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

Chat zalo Liên hệ theo Zalo Liên hệ theo SĐT
Mở Đóng
Gọi luật sưGọi luật sư 0567501111 ZaloZalo